Mắc bệnh t.inh h.oàn ẩn nhưng người đàn ông không đi khám do chủ quan. Tới khi đến bệnh viện đăng ký làm thụ tinh ống nghiệm do hiếm muộn, anh mới biết mình mắc ung thư t.inh h.oàn.
Nam bệnh nhân 30 t.uổi (Hà Nội) tới khám tại Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội để đăng ký làm thụ tinh ống nghiệm (IVF) do t.inh t.rùng kém, muộn con.
Tại bệnh viện, anh ngỡ ngàng khi nhận chẩn đoán mắc ung thư t.inh h.oàn. Được biết, bệnh nhân bị t.inh h.oàn ẩn đã lâu, 1 bên t.inh h.oàn nằm trong bụng, không sờ thấy. Tuy nhiên, một phần do không có triệu chứng đặc biệt, một phần vì chủ quan, người bệnh không đi khám.
Ths.Bs. Đinh Hữu Việt – Trưởng khoa Ngoại, Tiết niệu và Nam học, người trực tiếp thăm khám cho bệnh nhân thông tin, bệnh t.inh h.oàn ẩn của người đàn ông chính là nguyên nhân khiến anh mắc ung thư t.inh h.oàn.
Sau khi trữ đông t.inh t.rùng để bảo tồn khả năng sinh sản, bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật cắt bỏ t.inh h.oàn ung thư.
Bác sĩ Việt cho biết, ung thư t.inh h.oàn là sự phát triển khối u ác tính xuất phát từ một trong hai t.inh h.oàn. Căn bệnh này chiếm khoảng 1% ung thư ở nam giới, 5% ung thư đường s.inh d.ục – tiết niệu.
Hình minh họa
Có rất nhiều yếu tố nguy cơ dẫn tới bệnh ung thư t.inh h.oàn, trong đó chủ yếu là do bệnh lý t.inh h.oàn ẩn như trường hợp người đàn ông nói trên. Theo các thống kê, khoảng 25 đến 40% số ca ung thư t.inh h.oàn do mắc t.inh h.oàn ẩn.
Bệnh t.inh h.oàn ẩn không khó để nhận ra. Cụ thể, nếu 1 hoặc 2 t.inh h.oàn không nằm dưới bìu, không thể sờ thấy hoặc 1 bên quá cao so với bên còn lại, rất nhiều khả năng bạn đã mắc bệnh này.
Tuy nhiên, nhiều nam giới do hiểu biết kém hoặc chủ quan nên không đi điều trị. Chỉ đến khi thấy các triệu chứng đau tức bụng hoặc thấy muộn con, nhiều người đi khám thì bệnh đã tiến triển ung thư.
Những yếu tố nguy cơ khác có thể gây ung thư t.inh h.oàn bao gồm t.iền sử quai bị gây teo t.inh h.oàn, t.iền sử đã bị ung thư t.inh h.oàn 1 bên, viêm t.inh h.oàn – mào tinh, viêm nhiễm đường s.inh d.ục – tiết niệu tái phát nhiều lần…
Bác sĩ Việt cho biết, ung thư t.inh h.oàn có tỷ lệ chữa khỏi cao hơn rất nhiều so với các bệnh ung thư khác. Nếu được phát hiện và điều trị sớm, tỷ lệ chữa khỏi có thể lên đến trên 70%, thậm chí trên 90%.
Phương pháp chủ yếu để điều trị bệnh là phẫu thuật cắt bỏ t.inh h.oàn ung thư và nạo vét hạch (nếu có). Theo từng giai đoạn và thể bệnh, có thể phối hợp thêm hóa trị, xạ trị sau mổ. Trước điều trị, bệnh nhân thường được tư vấn trữ đông t.inh t.rùng để bảo tồn khả năng sinh sản trong trường hợp vẫn muốn có con.
Ở giai đoạn đầu, bệnh nhân ung thư t.inh h.oàn thường không có triệu chứng đặc biệt. Một số người có cảm giác vướng víu ở bìu, có thể thấy t.inh h.oàn hơi đau, sờ thấy 1 bên t.inh h.oàn to hơn 1 chút so với bên còn lại. Tuy nhiên, các dấu hiệu này thường không rõ ràng nên bệnh nhân dễ bỏ qua.
Giai đoạn muộn hơn khi khối u đã phát triển lớn, bệnh nhân có thể sờ thấy một khối cứng, đặc trong bìu. Ngoài ra, người bệnh cũng có thể gặp một số triệu chứng khác như đau t.inh h.oàn, vú to lên, đau lưng, đau lưng do khối u di căn chèn ép vào các cơ quan khác.
Bác sĩ Việt khuyến cáo, khi thấy có triệu chứng bất thường, bệnh nhân nên đi khám ngay để được tư vấn và điều trị kịp thời.
Tuy nhiên, do ở giai đoạn đầu, bệnh này thường không gây đau hay triệu chứng đặc biệt, khối u lại nằm sâu trong t.inh h.oàn (như lòng đỏ trứng gà) nên rất khó để nhận biết. Cách tốt nhất để phát hiện sớm bệnh ung thư hoàn, theo bác sĩ Việt là nên đi khám sức khỏe sinh sản định kỳ để được siêu âm t.inh h.oàn.
Những câu chuyện xúc động về hành trình điều trị vô sinh hiếm muộn
Hai vợ chồng chị Minh có lúc tuyệt vọng vì có bao nhiêu t.iền lại ‘khăn gói quả mướp’ đi chữa hiếm muộn. Đến nay hạnh phúc luôn thường trực trong đôi mắt của đôi vợ chồng đã ở t.uổi U50.
Vợ chồng chị Nguyễn Thị Minh và con trai 9 tháng t.uổi. (Ảnh: PV/Vietnamplus)
Chị Nguyễn Thị Minh (sinh năm 1977) đã trải qua hành trình 20 năm tìm kiếm một hy vọng được làm mẹ đầy nước mắt.
Với chị, mọi cánh cửa dường như rất hẹp, vậy mà nhờ sự hỗ trợ của các biện pháp can thiệp sinh sản hiện đại, vợ chồng chị đã vỡ òa hạnh phúc khi có đứa con chào đời khỏe mạnh ở t.uổi 42.
Tại buổi hội thảo tổng kết “Tuần lễ vàng ươm mầm hạnh phúc 2020-Hạnh phúc sẻ chia” diễn ra ngày 12/7, chị Minh bế cậu con trai 9 tháng t.uổi tâm sự sau 20 năm trải qua nhiều cung bậc cảm xúc. Chị nhớ lại, hai vợ chồng có lúc tuyệt vọng vì có bao nhiêu t.iền lại lên khăn gói quả mướp đi chữa hiếm muộn. Đến nay hạnh phúc luôn thường trực trong đôi mắt của đôi vợ chồng đã ở t.uổi U50.
Sinh năm 1977, chị Nguyễn Thị Minh và anh Mẫn Xuân Minh (sinh năm 1973), ở (Hiệp Hòa, Bắc Giang) là trường hợp hiếm muộn đến 20 năm. Anh chị kết hôn vào năm 2000, chị mang thai ngoài tử cung 2 lần, phải cắt bỏ vòi tử cung, chị lại có t.iền sử lạc nội mạc tử cung.
Đến năm 2008, hai vợ chồng đã làm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) tại một bệnh viện lớn nhưng kết quả không thành công.
Sau đó, cả hai tìm đến Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội vào tháng 11/2018. Các bác sỹ đã chỉ định thực hiện IVF cho hai vợ chồng. Hai tháng sau, chị Minh hồi hộp với cuộc chuyển phôi lần đầu tiên. Khi đó, các bác sỹ cũng khuyên chị cân nhắc vì niêm mạc rất xấu, khó thụ thai. Tiếp theo, chị phải nằm viện liên tục, bị tiểu đường thai kỳ… Vượt qua tất cả, sau nhiều nỗ lực, chị sinh con đầu lòng là một b.é t.rai khỏe mạnh vào năm 2019.
Tại buổi tổng kết có sự hiện diện của hơn 500 cặp vợ chồng từng điều trị hiếm muộn thành công. Họ đã chia sẻ nhiều câu chuyện xúc động về hành trình “tìm con.”
Mỗi gia đình, mỗi trường hợp là một câu chuyện riêng, không ai giống ai nhưng điểm chung là họ đã có được niềm hạnh phúc là những thiên thần nhỏ sau tháng ngày chạy chữa hiếm muộn nhờ những can thiệp từ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện đại.
Như gia đình chị Lê Thị Xuân (1984) và anh Nguyễn Minh Thắng (1977) (Sóc Sơn, Hà Nội). Kết hôn năm 2006, đến năm 2007, chị sinh b.é g.ái khoẻ mạnh bình thường. Nhưng đến năm 2012, khi sinh b.é t.rai thứ hai, bé chẳng may bị bệnh do bố mẹ đều mang gene Thalassemia và mất khi vừa 1 t.uổi.
Năm 2018, hai vợ chồng tìm đến Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội. Tại đây, gia đình được các bác sỹ tư vấn thực hiện thụ tinh ống nghiệm với sự hỗ trợ của kỹ thuật sàng lọc di truyền t.iền làm tổ, kết quả đã chuyển phôi thành công ngay từ lần đầu can thiệp. Chị Xuân đã sinh hai bé (1 trai 1 gái) vào đầu năm 2019 và hai bé hoàn toàn khỏe mạnh, không mang gene Thalassemia như bố mẹ.
Một trường hợp cả hai vợ chồng cùng mang gene Thalassemia khác là chị Nguyễn Thị Minh Nguyệt (1984) và anh Nguyễn Văn Luân (1985) (Bắc Ninh). Kết hôn năm 2007, anh chị có con đầu lòng vào năm 2014 nhờ thực hiện thụ tinh nhân tạo (IUI) tại một bệnh viện khác nhưng không may bé bị Thalassemia (hàng tháng, bé phải vào Viện Huyết Học và Truyền m.áu Trung ương để truyền m.áu).
Hạnh phúc đã đến với nhiều cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn. (Ảnh: PV/Vietnamplus)
Đến tháng 6/2018, hai vợ chồng thực hiện IVF tại Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội. Bệnh viện đã thực hiện kỹ thuật cao kết hợp xét nghiệm HLA (tìm sự tương thích giữa phôi xét nghiệm với em bé đã sinh ra), kiểm tra thì có một phôi chuyển được. Các bác sỹ đã chuyển phôi dị hợp thành công, chị Nguyệt sinh b.é g.ái vào năm 2019.
Khi vừa sinh, nhờ sự tư vấn của bác sỹ, hai vợ chồng đã lấy tế bào gốc từ cuống rốn của con gái để cấy ghép tế bào gốc cho con trai mắc Thalassemia. Sau thời gian cấy ghép đến nay (hơn 6 tháng), b.é t.rai chưa phải truyền m.áu lần nào như trước đây.
Những năm qua, các bác sỹ của Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội đã thực hiện thành công hàng ngàn ca, trong đó có không ít ca khó như hiếm muộn trên 20 năm thất bại sau nhiều lần IVF, cả hai vợ chồng cùng mang gene tan m.áu bẩm sinh (Thalassemia), người chồng vô tinh…
Bác sỹ Nguyễn Khắc Lợi-Giám đốc Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội cho hay sự ra đời của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện đại, đặc biệt là kỹ thuật IVF cùng nhiều phương pháp hỗ trợ khác đã giúp nhiều trường hợp hiếm muộn tưởng chừng vô vọng, cuối cùng vẫn có được quả ngọt. Tại bệnh viện, tỷ lệ thành công của các chu kỳ IVF khá cao và tăng dần theo từng năm, hiện tại là khoảng từ 50-70%./.