Một số bệnh nguy hiểm do virus gây ra

Trong 10 vấn đề sức khỏe mà Tổ chức Y tế Thế giới quan tâm thì có đến 6 nội dung có liên quan đến các loài vi khuẩn và virus.

Chúng bao gồm: virus cúm, HIV, virus Ebola, sốt xuất huyết, kháng kháng sinh, vấn đề e ngại trong tiêm phòng vắc- xin và gần đây nhất là viêm đường hô hấp cấp do virus Corona.

Điều đó đã nói lên rõ ràng rằng vi khuẩn, virus chính là những tác nhân liên quan lớn nhất đến sức khỏe con người trên toàn thế giới. Khác với vi khuẩn khi xâm nhập cơ thể thường sinh ra những ổ viêm có mủ, virus không sinh mủ và rất khó chẩn đoán. Các thuốc kháng sinh không có tác dụng lên các virus. Hiện đã có một số thuốc chống virus được đưa vào điều trị, song tác dụng cũng rất hạn chế. Để chống lại virus, biện pháp hàng đầu là sản xuất vắc-xin phòng bệnh.

Những bệnh nguy hiểm do virus gây ra thường gặp

Sởi, quai bị, Rubella: Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus gây ra với các triệu chứng sốt, phát ban, chảy nước mũi, ho, mắt đỏ. Sởi dễ dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng và đôi khi gây t.ử v.ong, bao gồm viêm não ở t.rẻ e.m và viêm phổi ở người lớn.

Quai bị là một loại bệnh truyền nhiễm, có thể xảy ra ở bất kỳ lứa t.uổi nào. Trong đó t.rẻ e.m 5 – 8 t.uổi dễ bị nhất, người lớn ít mắc. Bệnh này gây nhiều biến chứng nguy hiểm, nặng nhất là vô sinh. Bệnh Rubella có thể gặp ở mọi lứa t.uổi và không phân biệt giới tính nhưng nguy hiểm nhất khi gặp ở phụ nữ đang mang thai, đặc biệt là thai kỳ ở giai đoạn 3 tháng đầu.

Dị tật gặp ở thai nhi sau khi sinh (hội chứng Rubella bẩm sinh) có thể là điếc, tim bẩm sinh, đục thủy tinh thể, bệnh đầu nhỏ (chậm phát triển), bại não hoặc các dị dạng về xương, tổn thương các xương dài, mù mắt…

mot so benh nguy hiem do virus gay ra c92 5494645

Có nhiều loại virus gây viêm gan.

Bệnh dại: Dại là một bệnh nhiễm virus dại ở hệ thần kinh trung ương. Bệnh chủ yếu truyền qua nước bọt động vật bị nhiễm bệnh. Hiếm hoi truyền qua bụi chứa phân dơi có virus. Động vật mắc bệnh có thể truyền virus 5-7 ngày trước khi có triệu chứng lâm sàng và kéo dài cho đến c.hết. Virus chủ yếu truyền qua vết cắn, cào.

Hiếm có trường hợp truyền qua trung gian đồ vật. Virus không thể xuyên qua da lành. Virus dại thuộc nhóm rhabdovirus, giống lyssavirus. Ra ngoài cơ thể động vật, virus rất dễ c.hết và bị t.iêu d.iệt dễ dàng bởi xà phòng, ether, các dẫn xuất amoniac hóa trị 4.

Bệnh viêm đường hô hấp cấp, bệnh cúm: Do rất nhiều loại virus gây ra. Bệnh rất nguy hiểm, có thể lây lan rất nhanh. Hội chứng viêm đường hô hấp cấp tính do virus thường xảy ra vào mùa đông – xuân và do nhiều loại virus khác nhau gây nên, trong đó virus cúm chỉ là một trong số những tác nhân gây bệnh.

Nguyên nhân mắc bệnh cúm là do virus cúm (Influenza virus) thuộc nhóm Orthomyxoviridae và được chia thành 3 type A, B và C. Virus cúm A có khả năng gây nhiễm ở các loài động vật có vú (như lợn và ngựa), các loài chim và gia cầm. Trong đó, virus cúm B và C chỉ gây bệnh ở người.

Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona gây ra được xếp vào danh sách bệnh truyền nhiễm nhóm A, là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Bệnh lây truyền từ người sang người. Tùy thuộc vào mức độ lây lan của chủng virus, việc ho, hắt hơi hay bắt tay có thể khiến người xung quanh bị phơi nhiễm.

Bệnh viêm não: Viêm não (encephalitis), một tình trạng viêm của nhu mô não, biểu hiện bằng sự rối loạn chức năng thần kinh – tâm thần khu trú hoặc lan tỏa.

Đường xâm nhập thay đổi tùy theo từng loại virus gây bệnh. Có nhiều virus có thể lây truyền từ người sang người. Một số trường hợp viêm não lại do sự tái hoạt động của virus trong cơ thể như Herpes Simplex virus (HPV).

Bệnh AIDS do HIV gây ra: Căn bệnh thế kỷ đã g.iết c.hết nhiều người và đe dọa nhiều cộng đồng. Lây lan chủ yếu qua đường t.ình d.ục không an toàn, đường m.áu khi sử dụng chung bơm kim tiêm, tiêm chích m.a t.úy…, lây truyền từ mẹ sang con. Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) là một hội chứng bệnh lý do virus gây suy giảm miễn dịch (HIV) gây ra, làm cho cơ thể mất sức đề kháng với các vi sinh vật gây bệnh.

Bệnh viêm gan do virus: Cho đến nay đã xác định được các loại virus được đặt tên virus viêm gan A, B, C, D, E. Ngoài ra còn một vài loại đang xác định thêm tính gây bệnh và dung mạo lâm sàng trước khi có danh pháp quốc tế xác định tên virus (như virus viêm gan F, TT).

Đặc điểm lâm sàng có nhiều điểm giống nhau nhưng một số đặc điểm dịch tễ học, miễn dịch học, biện pháp phòng ngừa có khác nhau ít nhiều. Bệnh tiến triển từ từ qua nhiều giai đoạn dẫn đến viêm gan mạn tính, xơ gan… Phòng bệnh bằng cách ăn uống vệ sinh, không dùng chung bơm kim tiêm, tìm kháng nguyên HbsAg ( ) khi thử m.áu…

Cách phòng chống 3 căn bệnh thường gặp mùa đông

Khoa học đã chứng minh, mỗi mùa trạng thái sức khỏe của chúng ta bị đe dọa bởi những tác nhân gây bệnh khác nhau.

cach phong chong 3 can benh thuong gap mua dong a30 5494294

Người cao t.uổi dễ mắc viêm phổi vào mùa đông. Ảnh: ITN.

Vì thời tiết mùa đông lạnh, sức đề kháng của cơ thể con người có phần giảm sút hơn so với những khi thời tiết mát mẻ. Nếu mọi người không biết giữ ấm cơ thể của mình thì rất dễ bị mắc bệnh.

Sau đây là một số bệnh thường gặp vào mùa đông mà mọi người cần nhắc nhở nhau đề phòng.

Cảm cúm

Phân biệt rạch ròi thì cảm và cúm là hai bệnh lý khác nhau. Tuy nhiên do chúng có nhiều đặc điểm tương đồng và cách điều trị cũng giống nhau nên người ta có thói quen gọi chung là cảm cúm.

Cảm cúm là một bệnh lý đường hô hấp thường gặp nhất. Trong đời ai cũng bị cảm cúm không chỉ một vài lần mà rất nhiều lần. Bệnh do virus Influenza, còn gọi là virus cúm gây ra. Virus Influenza có nhiều chủng khác nhau.

Tại việt Nam, những chủng virus gây bệnh thường gặp là chủng A, B và C. Trong đó, gây bệnh nhiều nhất là các chủng A và B. Vì virus có nhiều chủng nên khi mắc bệnh với chủng này dù có tạo miễn dịch thì vẫn có thể mắc bệnh ngay trở lại với các chủng khác.

Dịch cúm bùng phát đã từng là thảm họa về sức khỏe ở nhiều nước phương Tây. Đối với người Việt, cảm cúm là chuyện gần như không có gì đáng e ngại cho lắm!

Bệnh cảm cúm lây qua các chất thải của người bệnh như nước bọt, nước mũi, đờm. Do vậy người trong cùng một gia đình, một lớp học và rộng ra là một cộng đồng dễ dàng lây cho nhau khi có một ai đó mắc bệnh. Các biểu hiện của cảm cúm là sốt, nhức đầu, sổ mũi hay nghẹt mũi, ho, rát họng, mệt mỏi, đau nhức xương và các cơ.

Cho đến nay, vẫn không có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh này. Người bệnh cần được nghỉ ngơi, uống nhiều nước, uống thuốc hạ sốt, giảm đau, làm sạch mũi bằng thuốc nhỏ mũi thông thường là Natri Clorua 9.

Các loại thuốc nhỏ mũi khác cần có sự chỉ định của bác sĩ, nếu không điều bất lợi có khi sẽ lớn hơn là mong muốn. Bệnh cảm cúm có thể phòng được nhờ tiêm vắc-xin.

Lưu ý: Nhiều bệnh nhiễm virus khác như sốt xuất huyết, quai bị, cúm A/ H1N1/ H5N1… đều có biểu hiện ban đầu giống như cảm cúm thông thường. Nhưng về sau có sự diễn biến khác biệt hoặc nặng dần lên. Vì vậy, ban đầu các bệnh này có thể bị bỏ qua hoặc nhầm lẫn vởi cảm cúm.

Viêm họng cấp

cach phong chong 3 can benh thuong gap mua dong 62a 5494294

Tác nhân gây bệnh viêm họng cấp có thể là virus hoặc vi khuẩn. Các biểu hiện của bệnh có thể bất ngờ xuất hiện như sốt cao, ớn lạnh, nhức đầu, nuốt đau, sưng hạch góc hàm, buồn nôn hay nôn.

Nuốt đau là dấu hiệu điển hình của viêm họng cấp. Đó là điều khiến nhiều bệnh nhân lo lắng và đi khám bệnh. Nếu soi đèn vào họng sẽ thấy họng tấy đỏ và 2 cục amidan sưng to, có thể có mủ trong những trường hợp nặng.

Người bệnh có “cơ quan phát ngôn” rủi ro bị tấn công, cần được khám họng và dùng thuốc. Các thuốc thường dùng là kháng sinh, hạ sốt, giảm đau, giảm ho và có thể là một chút “thuốc bổ”, hay thêm các loại thuốc khác tùy theo sự chỉ định của các y, bác sĩ.
Viêm phổi

Giống như viêm họng, bệnh viêm phổi cũng có tác nhân gây bệnh là vi khuẩn hoặc virus. Các biểu hiện thường gặp là sốt, nhức đầu, thở nhanh, ho, tức ngực, khạc đàm. Những trường hợp nặng có biểu hiện khó thở. Dấu hiệu nhận biết khó thở là thở hổn hển, gấp gáp, môi tím, các khoảng xương sườn co kéo, lồng ngực bị rút lõm do bị huy động vào việc tiếp tế oxy cho cơ thể.

Tất cả các trường hợp nghi ngờ bị viêm phổi phải được đưa đến cơ sở y tế để được khám xác định và chỉ định điều trị có hiệu quả nhất, tránh những điều đáng tiếc hoặc phức tạp thể xảy ra do điều trị muộn hoặc biến chứng.

Quai bị

Quai bị được xếp loại vào nhóm bệnh truyền nhiễm vì có khả năng lây lan cao. Đặc biệt, bệnh lây lan rất nhanh trong các nhà trẻ, các lớp học mẫu giáo và trường học. Bệnh quai bị do virus quai bị, gọi là Mumps virus gây ra. Virus này thuộc họ Paramyxoviridae. Bệnh lây qua đường hô hấp qua việc hít phải nước bọt mang mầm bệnh.

Biểu hiện của bệnh là sốt, sưng má một bên hoặc cả hai bên trông giống như là Ông Địa trong đám múa lân nên bệnh quai bị còn có tên gọi dân gian là bệnh Ông Địa.

Má sưng là do tuyến nước bọt ở mang tai bị viêm nhiễm và phình to ra. Đây không phải là ổ n.hiễm t.rùng có mủ, không đau nhức nên không có gì đáng lo ngại và sẽ “tự động” xẹp trong vòng 2 tuần. Cho nên, tuyệt đối không được tiêm thuốc gì vào vị trí bị phình to đó.

Bản thân bệnh quai bị không có gì đáng sợ, nhưng các biến chứng của nó mới thật sự để lại những hậu quả lâu dài như viêm t.inh h.oàn ở các nam và viêm buồng trứng ở nữ. Các biến chứng này có thể dẫn đến vô sinh. May mà bệnh quai bị có tính miễn dịch bền vững. Trong đời mỗi người chỉ mắc bệnh này chỉ một lần mà thôi.

Người bị quai bị cần được nghỉ ngơi, vì chạy nhảy nhiều dễ gây biến chứng. Theo dõi chăm sóc tại cơ sở y tế hoặc tại nhà để tránh lây lan cho người khác. Chế độ ăn lỏng, mềm, dễ tiêu và giàu chất dinh dưỡng. Nếu có biến chứng viêm t.inh h.oàn cần mặc quần “xịp” để nâng cao t.inh h.oàn giảm căng và giảm đau.

Lời khuyên chung

Để phòng tránh những bệnh thường gặp trong mùa đông, mọi người cần giữ ấm thân thể, giữ không cho bị lạnh ngực, chân, tránh nơi gió lùa. Tăng cường sự dinh dưỡng, nhất là ăn thực phẩm được chế biến nóng.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *